Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 năm 2024

Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 năm 2024

Tác giả:

Thông tin NXB:

Số trang : 0

Loại sách: Tạp chí

Mô tả

1. PHÙNG CHÍ KIÊN, HOÀNG TUẤN ANH

Định chế tiểu đa phương ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hiện nay và liên hệ với Việt Nam

Tóm tắt: Trong khoảng hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến sự trỗi dậy của nhiều định chế tiểu đa phương bên cạnh các định chế song phương và đa phương truyền thống. Cần khẳng định, chủ nghĩa tiểu đa phương và những định chế cụ thể của nó không phải một dạng thức mới xuất hiện trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, sự nổi lên mạnh mẽ của những định chế như vậy tại nhiều khu vực trên thế giới những năm gần đây thực sự là một chủ đề nghiên cứu rất đáng quan tâm. Bài nghiên cứu này trước hết tập trung làm rõ cơ sở lý luận về định chế tiểu đa phương, trên cơ sở đó phân tích thực trạng, chỉ ra một số xu hướng chính trong sự hình thành, phát triển của định chế tiểu đa phương tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay. Những kết quả đó là cơ sở để nhóm tác giả đưa ra một số liên hệ với Việt Nam trong quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế thời gian tới.

 

2. HÀ LÊ HUYÊN, NGUYỄN THỊ HỒNG LAM

Quan hệ Thái Lan - Ấn Độ giai đoạn 1947 - 2014

Tóm tắt: Thái Lan và Ấn Độ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 1/8/1947. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, với việc Ấn Độ triển khai chính sách Hướng Đông (năm 1992) và Thái Lan triển khai chính sách Hướng Tây (năm 1996), quan hệ giữa hai nước được thúc đẩy mạnh mẽ. Khi Ấn Độ nâng cấp chính sách Hướng Đông lên Hành động Hướng Đông (năm 2014) thì cũng là lúc nền chính trị và ngoại giao Thái Lan bước vào giai đoạn mới. Có thể nói rằng, lịch sử quan hệ hai nước từ năm 1947 đến năm 2014 có những bước thăng trầm nhưng cũng đạt được rất nhiều kết quả quan trọng, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ hơn trong hợp tác giữa hai bên giai đoạn sau năm 2014. Bài viết tập trung phân tích quan hệ Thái Lan - Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 2014 trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng, kinh tế và văn hóa - xã hội để có thể thấy được những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn này.

 

3. NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

Sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam 24 và Indonesia từ góc nhìn lịch sử

Tóm tắt: Việt Nam và Indonesia là hai quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, có những đặc trưng riêng về địa lý, dân cư, văn hóa... Nhưng trong sự đa dạng, hai quốc gia vẫn có điểm tương đồng. Thế kỷ XIX, trước sự tấn công của tư bản phương Tây, Indonesia trở thành thuộc địa của thực dân Hà Lan và Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp. Trong sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, cả Việt Nam và Indonesia đã giành lại nền độc lập vào năm 1945. Gắn liền với nó là sự ra đời những bản Hiến pháp đầu tiên của hai quốc gia. Hiến pháp của Indonesia ra đời năm 1945, Hiến pháp của Việt Nam xuất hiện năm 1946. Dù ra đời ở thời điểm gần nhau gắn với bối cảnh lịch sử tương đồng, nhưng do nhiều yếu tố tác động, nội dung và tính dân chủ của hai bản Hiến pháp có sự khác biệt.

 

4. LÊ DIỆU LINH, NGUYỄN HÀ PHƯƠNG

Sự tham gia của Thái Lan vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các hành lang kinh tế của tiểu vùng sông Mekong mở rộng

Tóm tắt: Với chính sách hướng đến xuất khẩu và trở thành mắt xích quan trọng của chuỗi sản xuất toàn cầu, Thái Lan không chỉ thay đổi cơ cấu kinh tế thích ứng với quá trình toàn cầu hóa mà còn ký kết và tham gia nhiều cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế. Thái Lan đóng vai trò rất quan trọng trong Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion - GMS), trong đó nổi bật nhất là tham gia vào phát triển hạ tầng cơ sở tại các hành lang kinh tế. Bài viết trình bày quá trình tham gia của Thái Lan trong các chương trình hợp tác tại các hành lang kinh tế của GMS, phân tích thực trạng hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng của Thái Lan tại 3 hành lang kinh tế, cũng như đưa ra những nhận xét đánh giá về quá trình tham gia này.

 

5. NGUYỄN THANH SƠN, PHẠM THỊ HUẾ

Kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng theo tiêu chuẩn chung của một số nước ASEAN và vận dụng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Tóm tắt: Thời gian qua, ngành du lịch đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước Đông Nam Á, vì vậy Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã đề ra nhiều tiêu chuẩn du lịch để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành. Một trong những tiêu chuẩn đó là Tiêu chuẩn du lịch cộng đồng (CBT) ASEAN với 10 tiêu chuẩn cụ thể. Bài viết này nghiên cứu việc áp dụng các tiêu chuẩn du lịch cộng đồng của một số vùng tại ASEAN như: Banteay Chhmar,. Campuchia; ở Nglanggeran, Indonesia; và ở Mae Kam Pong, Thái Lan, từ đó đề xuất một số giải pháp cho huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình (Việt Nam) trong việc áp dụng các tiêu chuẩn CBT. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm quốc tế, bài viết đưa ra một số giải pháp như: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các tiêu chuẩn CBT; Hoàn thiện thể chế phát triển du lịch cộng đồng; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch... Thực hiện các giải pháp hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn CBT sẽ dần cải thiện lợi ích và hiệu suất của du lịch cộng đồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.

 

6. HOÀNG NGUYÊN KHAI

Tiền kỹ thuật số của một số nước châu Á và hàm ý cho Việt Nam

Tóm tắt: Công nghệ số đang được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng số nói chung và đồng tiền kỹ thuật số nói riêng. Cách đây gần 15 năm, tiền kỹ thuật số chỉ được thiết kế và cung ứng ra thị trường bởi một số cá nhân, hay tổ chức. Khoảng 10 năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu, triển khai thí điểm tiền Ngân hàng Trung ương kỹ thuật số, trong đó có nhiều nước châu Á, đã bắt đầu nghiên cứu triển khai thí điểm tiền Ngân hàng trung ương kỹ thuật số tại một số thành phố lớn. Bài viết tập trung làm rõ các nội dung nói trên và có một số liên hệ, khuyến nghị đối với Việt Nam.

 

7. SAISAMONE SULYSAY

Bảo tồn và phát huy giá trị kiến trúc nhà cổ ở Luang Prabang, Lào

Tóm tắt: Năm 1995, Luang Prabang đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Trong khu di sản, các kiến trúc nhà cổ được đánh giá là một bộ phận góp phần làm nên giá trị của di sản. Luang Prabang là thành phố duy nhất của Lào còn bảo tồn được nhiều công trình kiến trúc cổ do trong nhiều thế kỷ qua, nơi đây ít bị tàn phá bởi chiến tranh. Đó là những nhà sàn cổ, nhà ở của người Lào được xây dựng kết hợp giữa kỹ thuật truyền thống của người Lào với kiểu kiến trúc Pháp; các công sở được xây dựng theo kiểu Pháp trong thời Pháp thuộc. Đặc biệt là kiến trúc chùa, tháp Phật giáo mang đậm nét đặc trưng của văn hóa và tôn giáo tín ngưỡng tại Luang Prabang. Tuy nhiên, qua thời gian, các ngôi nhà cổ ở đây đã bị xuống cấp và vấn đề đặt ra là phải bảo tồn, phát huy các kiến trúc nhà cổ này. Thông qua việc nghiên cứu kiến trúc nhà cổ ở Luang Prabang, bài viết đưa ra những đề xuất giải pháp góp phần cho di sản Luang Prabang tồn tại bền vững theo chính sách của UNESCO.

 

8. HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC

Hội thảo Khoa học "Đánh giá cơ sở thực tiễn vùng biên giới đất liền Việt Nam góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh"

 

9. ĐIỂM SÁCH

Hợp tác quốc tế ở Biển Đông hai thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo

 

9 lượt xem