NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI SỐ 11 (2024)

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI SỐ 11 (2024)

Tác giả:

Thông tin NXB:

Số trang : 0

Loại sách: Tạp chí

Mô tả

KINH TẾ THẾ GIỚI - KHU VỰC

 

BÙI QUANG TUẤN VÀ TRẦN THỊ HOA THƠM

 

Chính sách phát triển trí tuệ nhân tạo: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam

 

Tóm tắt: Trí tuệ nhân tạo (Al) đang trở thành yếu tố chiến lược cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, AI cũng đặt ra thách thức về đạo đức, bảo mật dữ liệu, việc làm và rủi ro an ninh quốc gia. Để phát triển bền vững, các chính phủ cần kết hợp khai thác tiềm năng AI với quản lý rủi ro. Trong bối cảnh này, việc tham khảo và học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế là rất quan trọng. Kinh nghiệm của Mỹ, Anh và Singapore cho thấy chính sách Al tập trung vào cho đầu tư R&D quản trị đạo đức và bảo vệ dữ liệu, hợp tác giữa Chính phủ với khu vực tư nhân sẽ mang lại hiệu quả khai thác tiềm năng của công nghệ này.

 

KIỀU THANH NGA

 

Chiến lược giảm phụ thuộc dầu mỏ của nền kinh tế Saudi Arabia

 

Tóm tắt: Saudi Arabia là một trong những quốc gia sản xuất dầu hàng đầu thế giới và nền kinh tế của nước này từ lâu đã phụ thuộc rất nhiều vào dầu mỏ. Xác định dầu mỏ không còn là nguồn tin cậy cho nền kinh tế và sự phụ thuộc vào dầu mỏ đã cản trở sự phát triển của các lĩnh vực khác, năm 2016, Chính phủ Saudi Arabia đã công bố Tầm nhìn 2030 với chiến lược đặt ra đến năm 2030 nhằm mục tiêu đa dạng hóa nền kinh tế thông qua đầu tư vào các lĩnh vực khác, giảm phụ thuộc vào dầu mỏ. Chiến lược đang thực hiện được nửa chặng đường, đã vượt mục tiêu và đạt mục tiêu ở một số lĩnh vực (tỉ lệ tham gia của lao động nữ, thứ hạng quy mô nền kinh tế, đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) vào GDP, thứ hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu...). Tuy nhiên, việc đạt được tất cả các mục tiêu vào năm 2030 là không khả thi và lộ trình đa dạng hóa của Saudi Arabia sẽ phụ thuộc rất nhiều và những nỗ lực chính sách, tiềm lực tài chính quốc gia cũng như tình hình khu vực, toàn cầu và sự hợp tác quốc tế.

 

NGUYỄN ĐÌNH NGÂN, PHẠM THẾ HÙNG

 

Phát triển điện gió, điện mặt trời ở Nhật Bản

 

Tóm tắt: Để đảm bảo an ninh năng lượng và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng không. Nhật Bản đã đẩy mạnh đầu tư phát triển năng lượng tái tạo, chủ yếu là điện gió, điện mặt trời. Những chính sách hỗ trợ về giá, ưu đãi thuế và phát triển hạ tầng kỹ thuật đã giúp Nhật Bản gia tăng đáng kể tỷ trọng điện mặt trời trong cơ cấu nguồn điện cũng như đạt được những bước tiến lớn trong việc đưa các dự án điện gió ngoài khơi đi vào hoạt động. Bài viết sẽ tập trung phân tích thực trạng phát triển điện gió, điện mặt trời ở Nhật Bản, các chính sách đang được triển khai, đồng thời chỉ ra những thành công, hạn chế còn tồn tại. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số hàm ý cho Việt Nam để giải quyết những điểm nghẽn như cơ chế mua điện mới, phát triển điện gió ngoài khơi, điện mặt trời hay phát triển chuỗi cung ứng trong nước.

 

VÕ HẢI MINH, LẠI LÂM ANH

 

Chuyển đổi số nền kinh tế của Trung Quốc: Thực trạng và những vấn đề đặt ra

 

Tóm tắt: Với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ tư hiện nay thì việc chuyển đổi số nền kinh tế đã trở thành xu hướng phát triển của thể giới. Trung Quốc là một trong những quốc gia điển hình về chuyển đổi số nền kinh tế và cũng đã gặt hái được nhiều thành công. Xuất phát từ những vấn đề trên, bài viết này nghiên cứu về quá trình chuyển đổi số nền kinh tế của Trung Quốc, trong đó tập trung vào chuyển đổi ngành nghề, thương mại điện tử, thanh toán điện tử, phát hành đồng tiền điện tử, hội nhập quốc tế về chuyển đổi số... Bài viết cũng chỉ ra những trở ngại mà Trung Quốc đã, đang và sẽ gặp phải như những vấn đề bên trong nội tại của Trung Quốc và những vấn đề bên ngoài Trung Quốc.

 

NGUYỄN THỊ HẠ

 

Một số xu hướng chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc từ năm 2000 đến năm 2024 và hàm ý chính sách cho Việt Nam

 

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu những nội dung liên quan đến chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 2020 đến 2024 cho thấy, chính sách của Đảng và Chính phủ Trung Quốc đang hướng tới phát triển bền vững và chất lượng cao: Coi đổi mới sáng tạo là động lực, phát triển sản xuất thông minh, hướng tới cường quốc công nghiệp và công nghệ cao; Tiếp tục xử lý mối quan hệ giữa thị trường, khu vực nhà nước và tư nhân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (KTTT XHCN) đặc sắc Trung Quốc. Qua việc xem xét, đánh giá những kết quả đạt được, cũng như một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc từ năm 2020 đến năm 2024, bài viết đưa ra một số liên hệ và gợi mở một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.

 

CHÍNH TRỊ - AN NINH QUỐC TẾ

 

NGUYỄN NGỌC LAN

 

Cách ứng xử của Myanmar đối với Trung Quốc kể từ khi giành độc lập vào năm 1948 đến nay

 

Tóm tắt: Đường biên giới chung giữa Myanmar với Trung Quốc dài hơn hai nghin kilomet. Trong suốt quá trình từ khi giành độc lập (1948) tới nay, chính sách đối ngoại của Myanmar luôn được điều chỉnh để phù hợp với tình hình nội bộ trong nước và bối cảnh quốc tế, và khu vực. Bài viết phân tích cách ứng xử của Myanmar đối với Trung Quốc qua các giai đoạn nhằm mang đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể hơn trong cách ứng xử của một quốc gia nhỏ đối với nước lớn ở khu vực.

 

VIỆT NAM - CẢI CÁCH VÀ HỘI NHẬP

 

NGUYỄN THỊ TƯỜNG ANH, PHẠM THỊ MỸ HẠNH, NGUYỄN THÙY LINH VÀ TRẦN HUY QUANG

 

Vai trò của chỉ số sản xuất công nghiệp, chi phí sinh hoạt theo không gian và chất lượng thể chế tới thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay

 

Tóm tắt: Sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và kiểm định Hausman, bài nghiên cứu này phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam và dòng vốn FDI vào Việt Nam, đặc biệt là chỉ số sản xuất công nghiệp, chi phí sinh hoạt theo không gian và chất lượng thể chế. Khi phân tích tác động của các yếu tố độc lập lên biến phụ thuộc, bài nghiên cứu đã xem xét độ trê, tức là khoảng thời gian cần thiết để chất lượng thể chế của chính phủ phát huy hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy cạnh tranh bình đẳng, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động, cũng như hệ thống pháp lý của chính quyền địa phương có ý nghĩa thống kê trong việc thu hút FDI vào các vùng cụ thể. Bên cạnh đó, chỉ số sản xuất công nghiệp và chi phí sinh hoạt theo không gian có mối quan hệ tích cực với dòng vốn FDI vào Việt Nam, nghĩa là các chỉ số này càng cao thì Việt Nam càng thu hút được nhiều FDI.

 

TÓM TẮT CÁC BÀI VIẾT BẰNG TIẾNG ANH

 

 

5 lượt xem